Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vấn đề tự phê bình và phê bình trong Đảng

Thứ năm - 10/06/2021 07:27
(Chuyên đề nghiên cứu khoa học 2015)Tự phê bình và phê bình là một nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, là công cụ sắc bén, phương pháp hiệu quả nhất để giáo dục, rèn luyện đảng viên và củng cố khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Vấn đề này đã được thể hiện rõ trong Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Ngay từ rất sớm, khi thành lập tổ chức cộng sản quốc tế đầu tiên, những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cho rằng, tự phê bình và phê bình là rất cần thiết cho hoạt động và sự phát triển của Đảng.
Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh, việc đảng phê bình hoạt động đã qua của mình là việc tuyệt đối cần thiết, và bằng cách đó đảng học được cách làm việc tốt hơn. Trong thư của Ủy ban Thông tin Cộng sản ở Bruyxen gửi G.A.Quếtghen (6-1846), trên cơ sở nắm bắt thực tiễn tổ chức và hoạt động của những người cộng sản ở một số nước, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng: Những người cộng sản phải vứt bỏ mọi thành kiến cá nhân, xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết nhất trí, phải tích cực ủng hộ việc đấu tranh phê bình và tự phê bình để cho Đảng phát triển, rằng: “Trong nội bộ đảng thì cần ủng hộ tất cả những gì giúp đảng tiến lên và đồng thời không được sa vào việc tranh cãi về đạo đức một cách nhạt nhẽo”[1]. Và chính các ông đã đề nghị đồng chí của mình là các quan điểm cá nhân cần vứt bỏ hoàn toàn, chúng sẽ làm hỏng mọi việc.
Trong thư gửi Bêben (6-1873), Ph.Ăngghen đã chỉ ra tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình là còn bởi vì trong những hoạt động cách mạng của giai cấp công nhân, của đảng cộng sản thì “những sai lầm về sách lược dĩ nhiên là lúc nào cũng có thể có” và bởi vì “Phong trào của giai cấp vô sản không khỏi trải qua những nấc thang phát triển khác nhau; ở mỗi nấc thang có bộ phận người bị kẹt lại, không đi xa hơn”[2]. Như vậy tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan để tránh những sai lầm trong hoạt động của đảng và để giúp đỡ những người bị kẹt lại, chậm tiến bộ không đi hơn được trong từng nấc thang phát triển đó.
Khi nghiên cứu đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới cũng như trong đời sống xã hội đều vận động và phát triển trong sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Đảng cộng sản là một tổ chức chính trị, một bộ phận cấu thành của đời sống xã hội, do vậy đảng cũng tồn tại, vận động phát triển theo quy luật sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, tự phê bình và phê bình trong đảng là biểu hiện của quy luật đó và là đòi hỏi tất yếu khách quan. Bản thân đảng, trong suốt cả quá trình hoạt động lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, cả khi chưa có chính quyền cũng như khi trở thành đảng cầm quyền, có nhiều vấn đề thực tiễn đặt ra rất phức tạp, nhiều vấn đề mới nảy sinh, từng cán bộ, đảng viên không thể nhận thức đầy đủ và sâu sắc ngay những vấn đề đó, quá trình tham gia hoạt động không thế tránh vấp ngã, sai lầm, khuyết điểm, do đó phải tiến hành công tác tự phê bình và phê bình.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen: Tự phê bình và phê bình là thuộc tính bản chất một đảng cách mạng. Đảng của giai cấp công nhân vận động và phát triển trong điều kiện xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp thì những mâu thuẫn nảy sinh trong đảng là khó tránh khỏi. Song đây là mâu thuẫn trong nội bộ đội tiên phong. Việc đấu tranh để giải quyết những mâu thuẫn trong đảng làm cho đảng không ngừng lớn mạnh là cần thiết và tất yếu. Nhưng đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn trong đảng tuyệt đối không được dùng biện pháp bạo lực thanh trừng lẫn nhau, loại bỏ lẫn nhau, mà phải đấu tranh bằng phê bình và tự phê bình.
V.I.Lênin đã kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, coi tự phê bình và phê bình là quy luật bất di bất dịch về sự phát triển của một đảng cách mạng. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh: “Tự phê bình là một việc tuyệt đối cần thiết cho hết thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống. Không gì tầm thường bằng chủ nghĩa lạc quan tự mãn”[3]. Người còn chỉ rõ: “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình. Còn chúng ta, chúng ta sẽ không bị tiêu vong, vì chúng ta không sợ nói lên những nhược điểm của chúng ta, và những nhược điểm đó, chúng ta sẽ học được cách khắc phục”[4].
Theo Lênin, đảng phải luôn tự phê bình và phê bình, tự vạch ra sai lầm, khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sữa chữa, coi đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một đảng có thật sự là một đảng mácxít chân chính hay không: “Bất luận thế nào nữa chúng ta cũng phải hết sức cố gắng, không ngại một công việc lâu dài và bền bỉ, phải làm cho đảng ta thoát khỏi đầu óc tiểu tổ, khỏi sự phân kỳ và chia rẽ vì những nguyên nhân không quan trọng, khỏi những lời nhảm nhí thiếu lịch sự và không xứng đáng... Hãy can đảm phơi bày những mụn nhọt của chúng ta để tiến hành chẩn đoán chúng và điều trị chúng một cách đúng đắn, không giả dối, không hình thức giả tạo”[5]. Lênin cũng cho rằng, trong quá trình lãnh đạo, đảng có khuyết điểm song điều quan trọng là có thái độ đúng đắn với sai lầm của mình hay không. Người yêu cầu, trước những sai lầm của mình, Đảng phải: Công khai thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn cảnh để ra sai lầm, nghiên cứu những biện pháp để sửa chữa sai lầm, Lênin chỉ rõ: “Và nếu một chính đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra, không dám chẩn đoán bệnh một cách thẳng tay, và tìm phương cứu chữa bệnh đó, thì đảng đó sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng”[6]. Đó là thái độ nghiêm túc của đảng, chỉ có đảng nghiêm túc như vậy mới là đảng mácxít chân chính. Cán bộ, đảng viên của Đảng cũng là con người, Lênin đã từng nói họ “không phải là thiên thần, không phải là thánh, không phải là anh hùng, mà cũng là người như tất cả mọi người khác. Họ cũng có khuyết điểm. Đảng sửa cho họ”[7]. Đối với đảng viên cộng sản, Lênin đòi hỏi rằng, trước sai lầm của mình, người đảng viên phải thực hiện tốt tự phê bình, người nói: “Người thông minh không phải là không phạm sai lầm... Người nào phạm sai lầm mà không nặng lắm và biết sửa một cách dễ dàng và nhanh chóng, thì người đó là người thông minh”. Đối với đảng cũng như các đảng viên, không có thái độ đúng đắn đối với khuyết điểm thì sẽ dẫn đến vi phạm những khuyết điểm lớn hơn, Lênin đã khẳng định điều đó khi nói: Cứ giữ mãi sai lầm, đi sâu thêm để bào chữa nó, đưa nó đến chỗ tột cùng, thì từ một sai lầm nhỏ, người ta luôn luôn có thể làm cho nó thành một sai lầm lớn ghê gớm và “nếu chúng ta cho rằng thừa nhận một thất bại cũng giống như từ bỏ một vị trí, sẽ gây ra tâm trạng chán nản và làm nhụt chí đấu tranh, thì phải nói rằng những nhà cách mạng như thế không đáng giá một đồng xu”. “Những sai lầm thường khi lại bổ ích, nếu người ta học tập được về những sai lầm đó, nếu những sai lầm đó tôi luyện con người”[8].
Tuy nhiên, tự phê bình và phê bình theo quan điểm của Lênin không phải là theo khuynh hướng của chủ nghĩa cơ hội, “tả khuynh”, theo lối cục bộ, bè phái gây chia rẽ, mất đoàn kết. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của mình, Lênin đã kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, lợi dụng cái gọi là: “tự do phê bình” để phá hoại tổ chức đảng, người phê phán những người cộng sản “tả khuynh” đã không có thái độ nghiêm túc trước những sai lầm của mình, cho nên họ không phải là đảng của giai cấp, không phải là đảng của quần chúng, chỉ là những nhóm nhỏ mang tính bè phái. Ông khẳng định: “Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng, khuynh hướng “phê bình” mới trong chủ nghĩa xã hội, chẳng qua chỉ là một loại hình mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi...”tự do phê bình” là tự do của khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong Đảng Dân chủ - Xã hội, là tự do biến Đảng Dân chủ - Xã hội thành một Đảng dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội, rằng: Vấn đề đặt ra hiện nay là:... nhiệm vụ của những người muốn đánh đố chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự... cần đấu tranh tích cực chống “phái phê bình” hợp pháp, nó đã làm trụy lạc đầu óc con người đến cùng cực, có một thực tế rõ ràng là kể từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đến nay các đảng cộng sản chân chính và những người mác xít luôn phải đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái phản động. Đây cũng được xem như là vấn đề có tính quy luật của đảng cộng sản.
Trong nội bộ đảng luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn là một tất yếu khách quan, song vấn đề cần phải được hiểu là những mặt đối lập, những mâu thuẫn ấy trong đảng (như: mâu thuẫn giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu; giữa phẩm chất, trình độ, năng lực còn hạn chế của đội ngũ cán bộ, đảng viên so với yêu cầu, đòi hỏi của nhiệm vụ ngày càng cao, mâu thuẫn giữa các ý kiến trái ngược nhau trong đảng, giữa hình thức, phương pháp lãnh đạo cũ của Đảng với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới..), không phải là mâu thuẫn đối kháng mà những mâu thuẫn đó được giải quyết thông qua tự phê bình và phê bình. Như vậy, mục đích của đấu tranh phê và tự phê bình là nhằm giải quyết mâu thuẫn, góp ý, nói thẳng, nói thật, chỉ ra những sai lầm, khuyết điểm, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, củng cố tình đoàn kết thống nhất, để cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau cùng tiến, cần tránh lợi dụng tự phê bình và phê bình để chỉ trích cá nhân, nói xấu, đả kích lẫn nhau, mà xem đó là chế độ sinh hoạt bình thường, thường xuyên trong đảng.
Đấu tranh phê bình và tự phê bình được diễn ra trên tất cả các mặt hoạt động của đảng, và yêu cầu thực hiện đối với mọi cán bộ đảng viên, bao gồm tự phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới đối với cấp trên và cùng cấp, được thể hiện qua các hình thức như: Hội nghị chi bộ, đảng bộ qua các thời kỳ, đại hội đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, báo cáo quý, tháng... của cấp dưới lên cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cấp trên đối với cấp dưới, qua các phương tiện thông tin đại chúng... Quá trình thực hiện công tác tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính khách quan, chân thành, cởi mở, phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo, khéo léo về cách thức, cần xác định xem nên tiến hành vào thời gian nào, nên nói những gì, bằng cách nào, nói đến mức độ nào,... làm tốt điều này làm tăng chất lượng của tự phê bình và phê bình.
V.I.Lênin đã dạy, sự phê bình và sự tự do đánh giá phải trên tinh thần đồng chí. “Phê phán” và “luận chiến” ở đây là cần thiết, nhưng “chỉ được phê phán công khai, trực tiếp rõ ràng và minh bạch chứ không phải bới lộng tìm vết, không phải châm chọc, soi mói” lẫn nhau. Theo Lênin, chính sách thì không nên có thái độ thẳng băng và không nên kịch liệt, không nên cố chấp nếu không cần thiết. Tiến hành công tác này còn cần phải thể hiện rõ những đặc tính cơ bản và tuân thủ những đòi hỏi bắt buộc như phải bảo đảm tính đảng. Điều này đòi hỏi thực hiện tự phê bình và phê bình phải đứng vững trên cơ sở chủ nghĩa Mác, quan điểm, chủ trương, chính sách của đảng, đấu tranh không khoan nhượng với mọi tư tưởng và hành động sai trái. Mặt khác không thụ động, bàn quang trước sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí, của tập thể.
Trong Dự thảo Lời kêu gọi của Ban Chấp hành Trung ương và của Ban Biên tập cơ quan ngôn luận Trung ương gửi các ủy viên thuộc phái đối lập và Bản tuyên bố không đưa ra, được viết khi bọn Men sê vích chưa chiếm được báo Tia lửa, Lênin đã kịch liệt phê phán và kiên quyết phản đối những thủ đoạn đấu tranh không mang tinh thần của đảng, những thủ đoạn đấu tranh không thể dung thứ được, mà bọn thủ lĩnh của phái Men sê vích đã áp dụng, như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tự do vô chính phủ...  Lênin cho rằng đó là những tổ chức ngoài miệng thì thừa nhận báo Tia lửa là cơ quan lãnh đạo, nhưng trong thực tế lại theo đuổi những kế hoạch riêng của mình và tỏ rõ là thiếu vững vàng về mặt nguyên tắc. Theo Người: Thiết tưởng, phải chọn lấy một trong hai điều sau đây: hoặc là phải bày tỏ ý kiến thắng thắn và dứt khoát thực chất của vấn đề trước toàn thế đại hội, hoặc là không bày tỏ ý kiến gì cả. Quá trình tự phê bình và phê bình còn phải tuân thủ cương lĩnh, đường lối, chính sách, tôn trọng bảo vệ lợi ích của Đảng và phải được tiến hành trong tổ chức Đảng, không được lợi dụng tự phê bình và phê bình đế đả kích cá nhân, gây rối nội bộ, gây chia rẽ, mất đoàn kết dẫn đến việc phá vỡ sự tập trung thống nhất trong Đảng, theo Lênin: Toàn bộ công tác của chúng ta, tất cả sự nỗ lực của chúng ta sẽ dùng để làm gì, khi mà kết quả bao giờ cũng chỉ là cuộc đấu tranh để gây ảnh hưởng ấy, chứ không phải là để hoàn toàn tranh thủ và củng cố ảnh hưởng đó. Phê bình và tự phê bình theo quan điểm của Lênin còn cần cụ thể thiết thực và kịp thời, điều này đòi hỏi sự đấu tranh không phải mang tính chất chung, trung bình chủ nghĩa mà cần có nội dung, địa chỉ rõ ràng, chỉ ra được cái đúng, chỗ sai, nguyên nhân của những vấn đề đó và phương hướng khắc phục, phải gắn với điều kiện cụ thể của từng tổ chức đảng và mọi cán bộ đảng viên, Người nói: Khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán như thế, một sự phê phán không có nội dung, một sự phê phán để mà phê phán thì các đồng chí hãy đề phòng, tự phê bình là một điều rất hay, nhưng khi tất cả chúng ta đã tán thành điều đó, thì sẽ là rất hay nếu chúng ta chú ý cả đến vấn đề nội dung phê bình nữa. Tính cụ thể, thiết thực của tự phê bình và phê bình của đảng còn thể hiện ở việc hướng vào việc kiểm điểm, phân tích, đánh giá, phê phán những vấn đề cấp bách trước mắt của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, trước hết là hướng vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, chức trách, nhiệm vụ và việc tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất năng lực, phong cách làm việc của cán bộ, đảng viên. Về nguyên tắc, thiết thực, cụ thể phải luôn gắn với tính kịp thời, bởi vì nếu phê bình và tự phê bình được tiến hành một cách kịp thời sẽ hạn chế được sai lầm, khuyết điểm, không để chúng tích tụ lại, làm trầm trọng thêm khuyết điểm, đồng thời ngăn chặn không cho những thiếu sót sai lầm của tổ chức đảng và của cán bộ, đảng viên bị tái diễn, kéo dài, điều quan trọng hơn là giúp uốn nắn ngay những lệch lạc, kích thích tính sáng tạo, động viên thúc đẩy các tổ chức đảng và mọi cán bộ, đảng viên hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
Vấn đề tự phê bình và phê bình đã được Hồ Chí Minh đề cập rất sâu sắc trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc và nhiều bài viết cho chuyên mục Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, trong các bài viết đề cập đến vấn đề đạo đức cách mạng và trong hầu hết các bài nói, bài viết về xây dựng Đảng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình không những là vũ khí, là “luật” trong xây dựng tổ chức mà còn được nâng lên tầm nghệ thuật trong công tác xây dựng Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi tự phê bình và phê bình là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển của Đảng. Người cho rằng: “Đảng cách mạng cần tự phê bình và phê bình như ta cần không khí”; “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh”, nếu “giấu giếm tật bệnh trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh”[9].
Phê bình là gì?Tự phê bình là gì? Có khi Hồ Chí Minh dùng cách gọi “tự kiểm điểm và kiểm điểm” hoặc “tự sửa chữa” và “giúp đồng chí mình sửa chữa”, “tự xét và xét đồng chí mình” để nhấn mạnh ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong việc khắc phục khuyết đim. Nhưng quan niệm về tự phê bình và phê bình có ý nghĩa bao quát rộng hơn. Theo Người: Tự phê bình và phê bình không phải chỉ vạch ra khuyết điểm mà phải nêu cả ưu điểm; nêu ưu điểm trước, chỉ ra khuyết điểm sau; nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm phải đi đôi với nhau, không coi nhẹ ý nghĩa của một mặt nào. Điều đó biểu hiện rõ tính nhân văn và tính khoa học - nét đặc sắc trong quan niệm về tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh.
Phương pháp tự phê bình và phê bình là: Nêu ưu điểm, vạch khuyết đim của mình trước và nêu ưu đim, vạch khuyết đim của đồng chí mình sau; dù là “xét”, “kiểm điểm” hay “phê bình” người khác thì người có khuyết điểm đó cũng là đồng chí mình chứ không phải kẻ thù hay đối địch. Cho nên, một mặt là để sửa chữa cho nhau, một mặt là để khuyến khích nhau, “bắt chước” nhau, cùng tiến bộ mãi. Người có ưu điểm thì phải cố gắng phát huy, vươn lên không ngừng. Người có khuyết điểm, bị phê bình thì phải vui lòng nhận rõ để sửa chữa. Tự phê bình và phê bình sẽ không gây nản chí hoặc oán ghét. Những biu hiện tiêu cực như: Chỉ thiên về vạch khuyết điểm của người khác theo kiểu “bới lông, tìm vết” để tìm cách hạ bệ nhau, làm giảm uy tín của nhau, chỉ thiên về phê bình người khác mà không nghiêm khắc tự phê bình, chỉ nhấn mạnh ưu điểm khi “phê bình cấp trên” theo kiểu tâng bốc, nịnh hót... Thực chất là biểu hiện cơ hội trong tự phê bình và phê bình, hoàn toàn trái với tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình.
Về vai trò tự phê bình và phê bình: Theo Hồ Chí Minh nó có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước hết, với mỗi cán bộ, đảng viên, tự phê bình và phê bình như mỗi ngày soi gương, rửa mặt, đ làm cho sạch sẽ cơ thể. Đảng là một thực thể chính trị xã hội, Đảng tồn tại trong xã hội thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng viên có tốt, chi bộ mới tốt và Đảng mới vững. Vì vậy, tự phê bình và phê bình đối với cán bộ, đảng viên hằng ngày là rất thiết thực, thường xuyên, bám sát trong mỗi hoạt động không thể thiếu trong nếp sống “văn minh cộng sản”, là vũ khí sắc bén cần thiết cho sự tiến bộ, trưởng thành của mỗi cán bộ, đảng viên, như cơm ăn, nước uống, như không khí để thở hàng ngày. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên: “Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình”[10].
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất đế xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đoàn kết trong Đảng là đoàn kết thống nhất rất cao, là đoàn kết thống nhất từ trong tư duy, nhận thức, từ trong lý tưởng đến hành động hằng ngày. Tự phê bình và phê bình sẽ giúp gột rửa, lọc bỏ những sai lệch, những bất đồng và trên cơ sở đó tạo nên sự kết dính, gắn bó hữu cơ trong nội bộ Đảng. Người viết: “Muốn đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, ắt phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình”[11].
Đối với tổ chức đảng: Tự phê bình và phê bình là thang thuốc hay nhất để chữa nhiều thứ chứng bệnh, để bồi bổ cho cơ thể của Đảng ngày càng thêm cường tráng. Theo Hồ Chí Minh, trong Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng không tránh khỏi những sai lầm khuyết điểm trong quá trình hoạt động “Đảng ta hy sinh tranh đấu, đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, tranh lại thống nhất và độc lập. Công việc đã có kết quả vẻ vang. Nhưng, nếu mỗi cán bộ, mỗi đảng viên làm việc đúng hơn, khéo hơn, thì thành tích của Đảng còn to tát hơn nữa. Cán bộ và đảng viên làm việc không đúng, không khéo, thì còn nhiều khuyết điểm. Khuyết điểm nhiều thì thành tích ít. Khuyết điểm ít thì thành tích nhiều”...”Vì vậy, ngay từ bây giờ, các cơ quan, các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa”[12]. Đảng có thể mắc những khuyết điểm, cũng như cơ thể con người mang bệnh trong mình. Muốn trị bệnh phải uống thuốc. Phương thuốc hiệu quảtự phê bình và phê bình. Đảng viên và cán bộ có thể phạm những sai lầm, song đã là một người cách mạng thì phải cố gắng phát huy những đức tính tốt, sửa chữa, loại bỏ những tính xấu. Vì tính xấu của một người thường chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ, sẽ có hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ nguồn gốc của những “tính xấu”, của những khuyết điểm, của những chứng bệnh trong Đảng, để trên cơ sở đó, có phương pháp đúng sửa chữa khuyết điểm. Đảng ta bao gồm đủ các tầng lớp xã hội, có nhiều tính cách, rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại; song trong Đảng ta cũng không tránh khỏi những tập tục, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài lây, ngấm vào Đảng. “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt, nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói xấu tự tư tự lợi, kiêu ngạo, xa hoa,... Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ, họ mang từ xã hội vào Đảng”[13]. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn phân tích rất sâu sắc “các hạng đảng viên”: Đảng ta có rất đông đảng viên. Phần đông cố nhiên đã hiểu biết vì dân, vì nước mà vào Đảng. Nhưng cũng có phần vì lẽ khác mà theo Đảng. Có người tưởng vào Đảng thì dễ tìm công ăn việc làm. Có người vào Đảng mong làm chức này, tước nọ. Có người vì anh em bạn hữu kéo vào... Đảng phải cảm hóa họ, dạy dỗ họ, nâng cao sự hiểu biết và lòng phụ trách của họ lên dần dần, để họ có thể trở thành những “người chiến sĩ khá”. Biện pháp thiết thực là thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết.
Khái quát những vấn đề nêu trên, Hồ Chí Minh cho rằng, tự phê bình và phê bình là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, đây là nguyên tắc có ý nghĩa sâu sắc bao trùm nhất. Người khẳng định: “Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển, càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình[14]. Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh xác định là một trong 12 điều “Tư cách của Đảng chân chính cách mạng”. Tự phê bình và phê bình “cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình “Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”. Vì vậy, ngay từ đầu tác phẩm Sửa đổi lối làm việc - một tác phẩm đã thể hiện rất sâu sắc và toàn diện vấn đề tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề “Phê bình và sửa chữa”. Theo Người, Đảng không che giấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa, để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, đảng viên, Người nói: “... một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[15].
Trong bài viết Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng, đăng trong chuyên mục Sửa đổi lối làm việc của báo Sự thật, Hồ Chí Minh đã nghiêm khắc phê phán những quan điểm nhận thức sai lệch về tự phê bình và phê bình. Có người đã ngụy biện rằng: Nếu phê bình khuyết điểm của mình, của đồng chí mình, của Đảng và Chính phủ thì địch sẽ lợi dụng mà công kích, phá hoại ta. Đó là một nhận thức sai lầm. Hồ Chí Minh cho rằng: Một đảng dám công khai thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để tiến bộ mới là một đảng dũng cảm; một đảng giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm; mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Do vậy, mục đích tự phê bình và phê bình là làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu bị mất dần đi. “Phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm thể diện và uy tín của cán bộ, của Đảng. Trái lại, còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy tín và thể diện càng tăng thêm”[16].
Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa chữa cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ”[17]. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm.
Tự phê bình và phê bình là quy luật chung của các đảng cộng sản, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam lại càng quan trọng. Đảng ta ra đời từ một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa nửa phong kiến, chịu ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến, thực dân “Cũng như những người hàng ngày lội bùn” nên trên người ắt nhiễm hơi bùn. Điều đó không có gì lạ. Mặt khác, khi đảng viên có chức, có quyền rất dễ nảy sinh những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội, thực dụng, độc đoán, chuyên quyền, gia trưởng, quan liêu, xa rời quần chúng. Muốn khắc phục những biểu hiện đó, cần tiến hành tự phê bình và phê bình ráo riết, thường xuyên. Cũng như người lội bùn lâu mà nhiễm hơi bùn thì phải tắm rửa và “phải tắm rửa lâu mới sạch”. Đội ngũ đảng viên của Đảng phần đông xuất thân từ nông dân và nhiều giai tầng khác nhau, mang theo những đặc điểm tư tưởng, tâm lý, lối sống khác nhau, điều đó tất yếu nảy sinh những mâu thuẫn trong Đảng. Đó không phải là mâu thuẫn đối kháng, nhưng cũng là nguy cơ gây mất đoàn kết, không tập trung, không thống nhất được tư tưởng, trí tuệ trong Đảng. Vì vậy, cách tốt nhất là thường xuyên tự phê bình và phê bình ráo riết để giải quyết hiệu quả những mâu thuẫn đó.
Mục đích của tự phê bình và phê bình mà Hồ Chí Minh chỉ ra chứa đựng yếu tố cách mạng và tính nhân văn sâu sắc. Để đạt được mục đích ấy cần phải có thái độ đúng, phương pháp đúng, có lý, có tình, trên tình thương yêu giai cấp. Trước hết phải có thái độ đúng trong tự phê bình và phê bình. Hồ Chí Minh yêu cầu phê bình mình cũng như phê bình người, phải triệt để, thật thà không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu đim và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm chứ không phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét.
Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Bệnh chủ quan, bệnh ích kỷ, bệnh hẹp hòi. Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong ra. Vì vậy, ta phải ra sức đề phòng những kẻ địch đó, phải chữa hết những chứng bệnh đó. Nhưng phải suy tính cho kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”1. “Để chữa khỏi những bệnh kia, ta phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau”2. Trong lúc phê bình, khuyết điểm phải vạch ra rõ ràng, mà ưu điểm cũng phải nhắc đến. Phải biết khuyến khích nhau, bắt chước nhau, giúp nhau tiến bộ.
Hồ Chí Minh yêu cầu tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, liên tục, kiên trì. “Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khỏe vô cùng”3. Nếu không làm thường xuyên thì khuyết điểm sẽ ngày càng tích tụ nhiều lên, lấn át ưu điểm. Những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, tham ô, tham nhũng, vi phạm tư cách đảng viên, nguyên nhân suy cho cùng là do không thường xuyên tự phê bình và tiếp thu phê bình. Hồ Chí Minh đã cảnh tỉnh: Nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm của chúng ta thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm, nguy hiểm đến tính mệnh. Phát hiện càng sớm, điều trị bệnh càng chóng khỏi; để bệnh nặng rất khó chữa, thậm chí có khi không chữa nổi. Cha ông ta có câu: “Thuốc đắng dã tật, nói thật mất lòng”. Khen thì dễ nhưng “phê” thì rất khó. Ai cũng muốn được khen mà không muốn bị chê, chê là đụng chạm đến khuyết tật của con người, đụng chạm đến nó là sẽ đau. Chính vì thế trên thực tế, không ít người sợ bị phê bình và ngại phê bình người khác. Đó là một khuyết điểm. Mặt khác, tự phê bình và phê bình phải thật sự dân chủ mới mong trong Đảng có nhiều sáng kiến, mới tập trung được trí tuệ.
Hồ Chí Minh vạch rõ hiện tượng mất dân chủ, khiến cho “các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình1. Điều đó dễ dẫn đến hậu quả: Cấp trên và cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau. Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì cái gì cũng không dám nói rõ ra. Họ không nói vì sợ bị “trù”. Không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt và những thói xấu khác”.
Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ vừa phải dân chủ lắng nghe ý kiến phê bình của cấp dưới, của quần chúng, vừa phải “biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa”1. Trong khi chỉ ra những yêu cầu về thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình, Hồ Chí Minh cũng đã thắng thắn phê bình những biểu hiện tiêu cực về thái độ phê bình của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong Đảng có một bộ phận “sao cũng mặc kệ, sao xong chuyện thì thôi”, không phê bình, không tự phê bình. Hồ Chí Minh coi đó là thái độ của những cán bộ, đảng viên ươn hèn yếu ớt. Hoặc có biểu hiện lợi dụng sai lầm khuyết điểm của người khác để đạt mục đích tự tư tự lợi, đó là thái độ “của kẻ đầu cơ”. Hoặc một số khác thì “đối với những người có khuyết điểm và sai lầm đó, như đối với “hổ mang, thuồng luồng. Họ đòi phải đuổi bọn kia ra khỏi Đảng ngay. Nếu không làm như thế thì họ cho rằng: Thôi, hỏng hết rồi! Do đó, họ đâm ra chán nản, thất vọng. Hoặc họ không làm gì nữa hết. Thậm chí họ bỏ Đảng. Đó là thái độ những người máy móc quá. Đó cũng là “bệnh chủ quan””2.
Hồ Chí Minh vạch rõ: Chủ nghĩa cá nhân một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm trong tự phê bình và phê bình. Đối với những người mắc bệnh “cá nhân” thì việc gì không phê bình trước mặt để nói sau lưng. Khi sinh hoạt không nói gì, ra ngoài mới nói. Không bao giờ đề nghị gì với Đảng. Ai có ưu điểm cũng không chịu học theo, ai có khuyết điểm cũng không dám phê phán. Còn khi họ phê bình ai thì không phải vì Đảng, không phải vì tiến bộ, không phải vì công việc, mà vì “công kích cá nhân, cãi bướng, trả thù...”. Nhiều ý kiến cho rằng, chỉ người có cái tâm trong sáng, có đức rộng, tài cao mới tự phê bình và phê bình được tốt; còn khi người đã có khuyết điểm nói chẳng ai nghe. Quan niệm như vậy là có mặt đúng nhưng mới là một chiều, đem đối lập giữa “người đúng” và “người sai”, đối lập giữa người “đức rộng, tài cao” với người có khuyết điểm... như vậy là chưa thấm hết cái tinh thần cách mạng, khoa học, tính nghệ thuật trong tự phê bình và phê bình của Hồ Chí Minh. Theo Hồ Chí Minh: Đạo đức không phải trên trời sa xuống, nó là kết quả của sự dày công rèn luyện mà trong đó tự phê bình và phê bình là một biện pháp thiết thực nhất. Phải đặt hoạt động tự phê bình và phê bình với vấn đề đạo đức cách mạng trong một mối quan hệ biện chứng. Thực tiễn cuộc sống luôn vận động. Cái “tâm” cái “đức” cũng không bất biến mà nó vận động cả ở góc độ chuẩn giá trị cộng đồng, cả ở góc độ với mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên. Vì vậy, nếu quan niệm “tâm”, “đức” là i gốc rễ sức sống của tổ chức, của cách mạng thì tự phê bình và phê bình là quả trình trao đổi chất thường xuyên giúp cho việc không ngừng củng cố, bồi bổ cho sức sống ấy. Hơn nữa, tự phê bình và phê bình thường xuyên còn làm cho cái “tâm” cái “đức” - thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng luôn ăn sâu, gắn chặt mà không xa rời những điều kiện vật chất của nó; luôn theo kịp sự vận động của thực tiễn. Tự phê bình và phê bình không phải là phương thuốc quý, là cái quyền cho riêng ai, mà nó là quyền lợi, là nghĩa vụ, là đặc trưng phẩm chất cao quý của tất cả những người cách mạng. Tự phê bình và phê bình giúp người có khuyết điểm thì tiến bộ hơn lên, người tiến bộ thì tiến bộ mãi.
Hồ Chí Minh kết luận: Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”. Trong tự phê bình và phê bình phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, tự tư tự lợi, ba hoa... Phải thực hành khẩu hiệu “chí công vô tư” thì mới đạt kết quả tốt.
 Quan điểm và thực tiễn sự vận dụng của Đảng ta về tự phê bình và phê bình trong Đảng
Quán triệt và thực hiện quan điểm về tự phê bình và phê bình theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong suốt quá trình xây dựng và hoạt động, Đảng ta luôn coi trọng tự phê bình và phê bình. Đảng khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và là ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ Đảng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Đảng là một tổ chức chính trị, tất yếu trong quá trình vận động, phát triển, nội bộ Đảng sẽ nảy sinh mâu thuẫn. Nhưng đó không phải là mâu thuẫn đối kháng, mà là mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ với cái lạc hậu. Đảng lấy tự phê bình và phê bình là biện pháp cơ bản để giải quyết những mâu thuẫn đó, tạo động lực cho sự vận động, phát triển. Trong điều kiện Đảng cầm quyền và trong những lúc chuyển giai đoạn, vấn đề tự phê bình và phê bình càng trở nên cần thiết, cấp bách hơn. Bởi vì, Đảng phải giải quyết nhiều nhiệm vụ nặng nề, nhiều vấn đề mới, phức tạp và luôn vận động, nảy sinh; đòi hỏi Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có trình độ, phẩm chất, năng lực hoạt động thực tiễn ngang tầm với đòi hỏi của cách mạng. Sự nắm bắt và nhận thức của cán bộ, đảng viên không thể ngay lập tức đạt được sự sâu sắc mọi vấn đề; đồng thời càng khó tránh khỏi những khuyết điểm, sai lầm. Thông qua tự phê bình và phê bình chẳng những giúp cho tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên vững vàng hơn về bản lĩnh chính trị, nâng cao được đạo đức cách mạng, mà còn nâng cao được kiến thức, năng lực, trình độ và đổi mới được tác phong công tác; phẩm chất đạo đức được bồi dưỡng, rèn luyện, thử thách.
Trên cơ sở quán triệt và vận dụng đúng đắn quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, trong quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng ta đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết, mở nhiều đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng.
Đại hội lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (1935), Đảng đã phát động và mở cuộc tự chỉ trích Bôn sê vích trong các cấp đảng bộ nhằm nghiên cứu các ưu điểm, tìm ra các khuyết điểm để tránh. Năm 1951, Đảng mở cuộc vận động chỉnh đốn Đảng, nhằm xây dựng Đảng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, khắc phục những biểu hiện ngại khó khăn, gian khổ, vô tổ chức, vô kỷ luật, tham ô hủ hóa. Năm 1961, Đảng mở đợt chỉnh huấn mùa xuân, thông qua tự phê bình và phê bình để giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, phát huy dân chủ nội bộ.
Từ khi thống nhất đất nước (1975) tới nay, Đảng ta đã qua 9 kỳ đại hội (từ Đại hội IV, đến Đại hội XII). Không nhiệm kỳ nào, văn kiện đại hội và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương không nhấn mạnh đến tự phê bình và phê bình. Đáng chú ý nhất là Đại hội IV, Đảng đã xác định: Tự phê bình và phê bình vừa là một quy luật, vừa là một phương pháp cơ bản để xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng. Từ đó, sau mỗi nhiệm kỳ lại kiểm điểm, đánh giá việc tự phê bình và phê bình còn kém, lại nhấn mạnh cần đẩy mạnh hơn nữa, lại tiếp tục coi đó là giải pháp cơ bản để khắc phục những yếu kém trong đội ngũ cán bộ. Văn kiện Đại hội IV ghi: “Mọi đảng bộ, mọi cấp ủy, mọi đảng viên đều phải thường xuyên tự phê bình và phê bình. Đó là một quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, là một phương pháp cơ bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng”[18]. Sau Đại hội IV và V (1976-1986), một chặng đường 10 năm mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm “đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí... Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán”[19].
Để khắc phục những khuyết điểm, Đại hội VI (1986) nhấn mạnh phải: Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình đúng với ý nghĩa là quy luật phát triển của Đảng, thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và ý thức trách nhiệm của Đảng với nhân dân. Người cộng sản phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật. Trong Đảng không thể dung thứ thái độ che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, lừa dối cấp trên, thái độ nể nang, hoặc đàn áp, trả thù người phê bình.
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đảng ta càng thấy rõ hơn vai trò, ý nghĩa của tự phê bình và phê bình trong Đảng và đi đến nhận định: Một quy luật cơ bản trong phát triển, tiến bộ của Đảng là thường xuyên tự phê bình và phê bình. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sáu (lần 2) khóa VIII, Đảng ta quyết định tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di chúc của Hồ Chủ tịch và 70 năm ngày thành lập Đảng, coi việc tiến hành tự phê bình và phê bình từ Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương đến cơ sở, là khâu đột phá và là biện pháp có ý nghĩa then chốt bảo đảm cho các giải pháp khác thắng lợi”[20]. Đảng đưa ra chủ trương: Mở rộng dân chủ, khuyến khích tranh luận thẳng thắn; tôn trọng, tập hợp và xem xét để tiếp thu hết ý kiến đúng đắn của các cấp ủy viên và đảng viên trước khi quyết định”[21].
Văn kiện Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Trong những năm tới... tiếp tục đưa việc tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy và tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở thành nền nếp, thường xuyên và theo định kỳ, không làm qua loa, chiếu lệ, hình thức; vận động nhân dân góp ý kiến phê bình cán bộ, đảng viên”[22].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng chỉ rõ cần phải đồng thời các cấp bộ Đảng cần tập trung vào một số biện pháp chủ yếu như Đại hội X chỉ ra: “Coi trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, tự tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng dân chủ, công khai. Biu dương và nhân rộng những tấm gương cần kiêm, liêm chính, chí công vô tư”[23]“Thực hiện đồng bộ các biện pháp củng cố tổ chức cơ sở đảng, chú trọng những địa bàn xung yếu, vùng sâu, vùng xa, ở các đảng bộ, chi bộ yếu kém; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, đề cao tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng”.
Văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định: Cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Các tổ chức đảng tạo điều kiện để đảng viên công tác, lao động có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Thực tiễn xây dựng Đảng những năm qua cho thấy: khi công tác tự phê bình và phê bình không được thực hiện nghiêm túc thì sẽ xuất hiện những điều kiện làm suy yếu tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ quan liêu, hách dịch, cửa quyền và ở đó luôn nảy sinh các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trong thời gian dài, vấn đề tự phê bình và phê bình của Đảng ta đã bị xem nhẹ. Tình trạng này diễn ra không chỉ ở phần lớn đảng viên thường và những chi bộ, đảng bộ cơ sở, mà ngay cả một số cán bộ cấp cao của Đảng và tổ chức đảng cấp trên, vẫn còn chưa thực sự nghiêm túc tự phê bình và phê bình. nhiều nơi sinh hoạt tự phê bình và phê bình chỉ còn là hình thức. Người ta vẫn tổ chức sinh hoạt đều đặn, nhưng thực chất lại tước mất linh hồn của các buổi sinh hoạt, vấn đề tự phê bình và phê bình lại bị biến thành vũ khí cầu lợi cá nhân...
Ngày nay, bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, chứa đựng những yếu tố khó lường. Đảng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của Đảng rất nặng nề. Phạm vi, quy mô lãnh đạo ngày càng mở rộng, đối tượng lãnh đạo đa dạng phức tạp; vai trò lãnh đạo của Đảng tăng lên, đòi hỏi Đảng phải luôn và thực sự trong sạch, vững mạnh. Đảng ta đã đề ra những nguyên tắc lãnh đạo đất nước trên cơ sở xây dựng nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối. Trong sinh hoạt của nhiều cấp ủy và tổ chức đảng đã có không khí thảo luận thẳng thắn, phát huy trí tuệ của đông đảo của cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều cấp ủy đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm tự phê bình và phê bình.
Từ thực trạng cho thấy hiện nay vẫn còn không ít các cấp ủy và tổ chức đảng chưa chú trọng đến tự phê bình và phê bình. Khá nhiều tổ chức đảng, tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện thường xuyên. Việc phê bình và phê bình thiếu nội dung thiết thực, thiếu địa chỉ, còn nặng về hình thức, nặng về phê bình người khác, phê bình không đúng hướng, không đúng và không tuân thủ những đặc tính và đòi hỏi nghiêm ngặt của tự phê bình và phê bình của Đảng, cũng như theo tư tưởng Hồ chí Minh, đang tồn tại không ít tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên. Việc ngại đấu tranh, né tránh, lựa chiều, “dĩ hòa phú quý” trong tự phê bình và phê bình là tình trạng khá phổ biến hiện nay đúng như Đại hội X chỉ rõ: “Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyn biến cơ bản, chưa góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Một số cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp chưa nêu gương, chưa làm tròn trách nhiệm trong đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Việc xử lý kỷ luật đối với những người đúng đầu để xảy ra tham nhũng, lãng phí ở ngành, địa phương, đơn vị chưa kịp thời, kiên quyết”[24].
Sau 25 năm đổi mới, tháng 01-2011 Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X trình Đại hội XI, thừa nhận: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội... Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu... Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”[25]. Để nâng cao sức mạnh của Đảng, kiên quyết khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định phải: “Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng”[26].
 Sau hơn một năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, thực trạng công tác xây dựng Đảng có không ít những vấn đề cũ chưa được khắc phục thì những vấn đề mới lại nóng lên. Ngày 16-01-2012, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết một lần nữa chỉ rõ tính cấp thiết của vấn đề: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số vấn đề cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Nghị quyết nghiêm khắc chỉ rõ: Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan... Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan: Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi với làm hoặc làm chiếu lệ. Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát... Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém... Một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao. Nghị quyết một lần nữa xác định nhóm giải pháp đầu tiên là tự phê bình và phê bình. Điều này cho thấy, Đảng chân chính cách mạng phải nhận thức sâu sắc rằng, tự phê bình và phê bình luôn là quy luật phát triển của Đảng. Người cách mạng phải nắm vững quy luật đó và phải biết cách hành động hợp quy luật để nó thực sự trở thành vũ khí sắc bén trong cuộc đấu tranh giữ gìn tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, một thứ vũ khí, như Hồ Chí Minh từng nói là phò chính, trừ tà.
Trong khi đó, cuộc sống sinh hoạt của cán bộ, đảng viên chịu nhiều chi phối, tác động của nhiều yếu tố, cả tích cực và tiêu cực. Do những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế kinh tế thị trường, sự du nhập lối sống ngoại lai và các tệ nạn xã hội... đã tác động, làm nhiều người thay đổi về quan niệm thang giá trị đạo đức xã hội, làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về đạo đức lối sống, sa vào chủ nghĩa cá nhân, thực dụng. Sinh ra nhiều căn bệnh nguy hiểm: Cục bộ, ích kỷ, vụ lợi, ham quyền lực, ham của cải làm giàu bất chính; lối sống xa hoa, hưởng lạc. Đối với đồng chí đồng đội, họ kèn cựa, địa vị, gây mất đoàn kết; đối với nhân dân thì quan liêu, sách nhiễu, xa rời hoặc dân chủ giả tạo, ngoài mặt... Không ít cán bộ, đảng viên vì lợi ích cá nhân, mải lo lợi ích cá nhân, gia đình mà quên hết lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân. Đó là những nguy cơ đe dọa sự trong sạch của Đảng và của cả hệ thống chính trị. Thực trạng đó do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân thực hiện công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng còn hạn chế.
Trong giai đoạn hiện nay, việc quán triệt và đẩy mạnh tự phê bình và phê bình theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đang là vấn đề vừa cơ bản, lâu dài; vừa là những yêu cầu trước mắt của cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, của quá trình đổi mới và cải cách bộ máy hành chính, đổi mới cung cách làm việc của mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng Đảng ta, Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, thực sự của dân, do dân, vì dân, hướng tới thực hiện thành công mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”./.
 
 
[1] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.38.
[2] C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1997, t.33, tr782
[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1979, t.10, tr.395-396.
[4] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1978, t.45, tr.141.
[5] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1979, t.8, tr.191.
[6] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1979, t.8, tr.366
[7] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1980, t.21, tr.524.
[8] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1978, t.44, tr.576.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.273.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.6, tr.130.
[11] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.9, tr.368.
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.272-273.
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.303.
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.11, tr.608.
[15] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.301.
[16] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.324.
[17] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.272.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.279.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.279.
3 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.279.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.283.
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.284.
2 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, t.5, tr.304.
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, t.37, tr.1050.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2004, t.47, tr360-361.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1999, tr.56.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb.Chính trị quốc gia, H.1999, tr.31.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2001, tr.140.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.287-288.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2006, tr.268, 269.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.172, 174, 175.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.Chính trị quốc gia, H.2011, tr.259.

Tác giả bài viết: PGS.TS Thân Minh Quế

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

ẢNH HOẠT ĐỘNG
Thăm dò ý kiến

Bạn biết đến Website này từ nguồn thông tin nào?

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây